-
Điều chỉnh cường độ hóa trị theo chỉ số bệnh tồn dư tối thiểu (MRD) của từng bệnh nhân.
-
Ở nhóm bệnh nhân vẫn còn tế bào ung thư sau điều trị ban đầu, tỷ lệ sống sót 5 năm không biến cố tăng từ 19% lên 90%.
-
GS. Kim Hye-ri, Khoa Huyết học – Ung thư Nhi, Bệnh viện Asan Seoul: “Ngay cả với những bệnh nhân có nguy cơ tái phát cao, chúng tôi cũng có thể nâng cao tỷ lệ sống sót.”
Bệnh bạch cầu lympho cấp tính (ALL) là bệnh ung thư máu thường gặp nhất ở trẻ em. Căn bệnh này xảy ra khi các tế bào lympho bất thường tăng sinh quá mức trong tủy xương, ức chế sản xuất tế bào máu bình thường, gây ra các triệu chứng như thiếu máu, xuất huyết.
Nhờ sự tiến bộ của hóa trị liệu, tỷ lệ sống sót của ALL đã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp dù bề ngoài có vẻ khỏi bệnh nhưng trong cơ thể còn sót lại một lượng rất nhỏ tế bào ung thư, gọi là bệnh tồn dư tối thiểu (Minimal Residual Disease – MRD). Trước đây khó phát hiện MRD, nhưng hiện nay đã có thể đo được qua xét nghiệm tủy xương và ứng dụng trong việc điều chỉnh cường độ hóa trị.
Nhóm nghiên cứu của GS. Kim Hye-ri (Bệnh viện Asan Seoul) đã phân tích hơn 200 trẻ được điều trị ALL trong 10 năm qua và phát hiện: ở bệnh nhân có MRD cao, nếu tăng cường điều trị thì tỷ lệ sống sót 5 năm không biến cố tăng từ 19% lên 90%.
Trong quá trình điều trị (từ giai đoạn cảm ứng cho đến giai đoạn củng cố), chỉ số MRD được đo thường xuyên. Nếu kết quả ≥0,1%, bác sĩ sẽ tăng liều thuốc hoặc thêm chu kỳ hóa trị. Nhờ đó, nguy cơ tái phát giảm mạnh và tỷ lệ sống sót được cải thiện rõ rệt.
Ví dụ:
-
Sau giai đoạn cảm ứng, 21 bệnh nhân có MRD dương tính, 12 người được tăng cường điều trị. Kết quả: nhóm không tăng cường chỉ đạt 19%, trong khi nhóm tăng cường đạt 90% sống sót sau 5 năm.
-
Sau giai đoạn củng cố, nhóm không tăng cường đạt 75,4%, trong khi nhóm tăng cường đạt 95,2%. Ngoài tác dụng phụ thông thường của hóa trị, không ghi nhận thêm biến chứng nghiêm trọng nào.
Từ năm 2021, Bệnh viện Asan đã đưa vào sử dụng kỹ thuật giải trình tự gen thế hệ mới (NGS) với độ nhạy gấp 100 lần so với phương pháp cũ, cho phép phát hiện cả lượng cực nhỏ tế bào bạch cầu còn sót lại. Nhờ đó, các kế hoạch điều trị chính xác hơn được xây dựng. Kết quả, từ năm 2015 đến nay, tỷ lệ khỏi bệnh của bệnh nhân ALL điều trị tại Asan đã vượt 97%.
GS. Kim Hye-ri khẳng định:
“Kết quả nghiên cứu cho thấy, việc điều chỉnh cường độ hóa trị dựa trên chỉ số MRD giúp nâng cao đáng kể tỷ lệ sống sót của trẻ em mắc bạch cầu, kể cả những ca có nguy cơ tái phát cao. Chúng tôi sẽ tiếp tục nỗ lực để nâng cao hơn nữa tỷ lệ khỏi bệnh cho trẻ.”
Nghiên cứu này đã được đăng tải trên tạp chí quốc tế Blood Research (chỉ số ảnh hưởng 2.8).
